Việc thông qua Luật Quy hoạch được kỳ vọng sẽ khắc phục thực trạng quy hoạch chồng chéo, xung đột, gây gặp khó cho cơ quan quản lý, công ty và người dân.
Có thể sớm đã đi vào làm việc toàn bộ hệ thống quy hoạch khi Luật Quy hoạch đi vào cuộc sống |
Lâu nay, dư luận phản ánh thực trạng tồn ở nhiều loại quy hoạch, địa phương nào cũng có quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội của tỉnh, của huyện, quy hoạch 1 số địa phương, quy hoạch sản phẩm, quy hoạch thành phố, nông thôn.
Các quy hoạch này chồng chéo, xung đột nhau, gây gặp khó rất lớn cho việc quản lý và thực hiện quy hoạch, đồng thời gây tốn kém cho ngân sách. Chưa kể, tuổi thọ của quy hoạch rất ngắn, vừa phê duyệt đã phải tính đến việc điều chỉnh cho thích hợp có thực ở.
Bởi thế, nhiều đại biểu Quốc hội và dư luận người dân đều đồng tình ủng hộ ban hành Luật Quy hoạch. Dự thảo Luật Quy hoạch hiện đang được trình Quốc hội và chuẩn bị ngày 24/11 tới đấy, Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua dự luật này.
Trước khi bản dự thảo cuối cùng được trình để Quốc hội bấm nút thông qua, có 1 số vấn đề được 1 số đại biểu Quốc hội góp ý, nhằm mục đích sau khi được ban hành, Luật có tính khả thi cao, có tác động tích cực đến làm việc lập và quản lý quy hoạch cũng như đối có 1 số công ty, người dân.
Là Phó hiệu trưởng Trường đại học Kinh tế quốc dân, đại biểu Hoàng Văn Cường (Đoàn Hà Nội) có khá nhiều bí kíp thực tiễn giải đáp lập quy hoạch. Theo đại biểu Cường, thực trạng thực ở GĐ này là việc triển khai lập quy hoạch thường khá dài. Ngay ở Hà Nội, quy hoạch chung Hà Nội đã được phê duyệt từ năm 2011, nhưng đến nay còn rất nhiều huyện chưa có quy hoạch của tuyến huyện.
“Như vậy, khi chúng ta vừa lập xong quy hoạch địa bàn cấp dưới thì đã đến kỳ điều chỉnh quy hoạch cấp trên (sau 5 năm theo quy định của dự thảo). Khi đây, quy hoạch cấp dưới sẽ thiếu căn cứ vì không còn quy hoạch cấp trên để làm căn cứ áp dụng đầu tư”, đại biểu Hoàng Văn Cường nhận xét.
Để tránh thực trạng quy hoạch có nhưng không có căn cứ để thực hiện, đại biểu Hoàng Văn Cường cho rằng, phải tích hợp ngay trong quá trình lập quy hoạch 1 số cấp. Khi lập dự thảo quy hoạch thì phải lập dự thảo quy hoạch quốc gia, rồi lập dự thảo quy hoạch ngành, dự thảo quy hoạch vùng và dự thảo quy hoạch tỉnh, thành phố. Khi điều chỉnh cũng đề xuất điều chỉnh đồng bộ bởi thế. Và khi phê duyệt, cũng phê duyệt cả cụm. Thay vì chờ lập quy hoạch, phê duyệt quy hoạch từng cấp xong rồi mới lập quy hoạch cấp dưới.
“Nếu chúng ta áp dụng đồng thời bởi thế, tôi nghĩ trong dao động thời gian từ 2 – 3 năm là có thể đã đi vào làm việc toàn bộ hệ thống quy hoạch và tích hợp được toàn bộ nội dung vào đồng bộ có nhau”, đại biểu Cường nói và nhận định thêm, nếu việc lập quy hoạch được tích hợp bởi thế, chắc chắn sẽ cắt giảm 1 số trường hợp quy hoạch chờ quy hoạch và dẫn đến thực trạng quy hoạch treo.
Một số ý kiến đại biểu khác yêu cầu tách bạch hai nội dung thời hạn và tầm nhìn của quy hoạch, nhất là tính pháp lý của quy hoạch và pháp lý của tầm nhìn. Quy định hiện hành không làm rõ vấn đề này, có quy hoạch thì phần thời hạn quy hoạch và tầm nhìn được gộp lại, hai GĐ đây coi như là phân kỳ của kế hoạch. Do vậy, 1 số mục tiêu, 1 số cân đối đều có tính pháp lý để làm căn cứ thi công chính sách bán hàng, cơ chế và điều hành nền kinh tế giống nhau, từ đây dẫn đến không chắc chắn tính pháp lý, sự thống nhất giữa quy hoạch 1 số địa phương.
Cũng theo ý kiến đại biểu, tầm nhìn của quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng là 20 năm, nhưng tầm nhìn của quy hoạch kết cấu hạ tầng là 30 – 50 năm, cần cân nhắc có thích hợp không? Quy hoạch kết cấu hạ tầng là 1 bộ phận của quy hoạch vùng, quy hoạch quốc gia mà có thời gian dài gấp đôi quy hoạch quốc gia thì tầm nhìn xa hơn đây dựa vào căn cứ nào?
Một kiến nghị khác từ đại biểu Hoàng Văn Cường là căn cứ lập quy hoạch. Dự thảo Luật quy định 3 căn cứ lập quy hoạch: Căn cứ vào chiến lược, căn cứ vào quy hoạch của 1 số bậc cao hơn và quy hoạch trước. Đại biểu Cường đồng tình có 3 căn cứ này nhưng đề xuất thêm 2 căn cứ mới.
Thứ nhất là nguồn lực phát triển. Quy hoạch là việc phân bổ 1 số nguồn lực phát triển, bởi thế phải căn cứ vào 1 số nguồn lực phát triển. Đây là căn cứ quan trọng nhất.
Thứ hai là việc khai thác 1 số nguồn lực phát triển phải thích hợp có xu thế phát triển của 1 số nước trong khu vực và trên địa cầu cũng như tiên liệu sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Do đây, đại biểu Cường yêu cầu phải có căn cứ thứ hai là căn cứ vào xu thế phát triển của 1 số nước trong khu vực và trên địa cầu, cũng như xu thế của tiến bộ của khoa học kỹ thuật để định hướng khai thác 1 số nguồn lực thích hợp nhất.
Tìm hiểu thêm tài liệu về dự án masteri an phú Xem Thêm